Định hướng giới tính là vô cùng phức tạp, không phải là kết quả của bất kỳ yếu tố riêng lẽ nào mà là kết quả từ sự kết hợp giữa nhiều yếu tố môi trường và sinh học, và, sự định hướng này là lựa chọn tự nguyện.
Định hướng giới tính
Định hướng giới tính là gì
Định hướng giới tính tiếng Anh là sexual orientation miêu tả sự chọn lựa của một người về quan hệ tình cảm và tình dục với người khác cùng giới hoặc khác giới mà sự định hướng này là lựa chọn tự nguyện. Định hướng giới tính là một khái niệm phức tạp và bao gồm nhiều hướng khác nhau.
Định hướng giới tính bao gồm tình cảm cá nhân và nhận thức về bản thân, có thể biểu hiện rõ rệt qua hành vi hay vẻ bề ngoài của bạn, nhưng cũng có thể không biểu hiện gì.
Phân nhóm định hướng giới tính thông thường
Định hướng giới tính thường được chia thành 3 nhóm
- Dị tính (Heterosexual): chúng ta bị thu hút bởi những người có giới tính khác với bản thân
- Lưỡng tính (Bisexual): chúng ta bị thu hút bởi cả nam và nữ
- Đồng tính (Homosexual): chúng ta bị thu hút bởi những người có giới tính giống với bản thân.
Thực tế, có nhiều quan điểm trái chiều về vấn đề định hướng giới tính cho con ngay từ bé khiến không ít cha mẹ cảm thấy rất hoang mang. Do đó, bậc cha mẹ cần phải định hướng giới tính một cách đúng đắn để tránh giáo dục con không phù hợp với giới tính của trẻ.
Lý giải hiện tượng lệch lạc giới tính theo thước đo Kinsey
Định hướng giới tính là sự lựa chọn tự nguyện. Bài viết này Mie Master tập trung vào 3 nhóm hướng lớn
- Heterosexuals (Dị tính) tìm kiếm mối quan hệ tình cảm- tính dục thuộc giới tính khác
- Homosexuals (Đồng tính) tìm kiếm mối quan hệ tình cảm -tính dục với cùng giới tính; trong đó gay là đồng tính nam, lesbian là đồng tính nữ.
- Bisexuals (Song tính) tìm kiếm mối quan hệ tình cảm -tính dục với cả hai giới.
LGBT là cụm từ miêu tả chung nhóm Lesbian, Gay, Bisexual và Transgender. Trong nhiều năm gần đây, thuật ngữ gay được dùng để chỉ chung những người đồng tính, straight chỉ chung những người dị tính.
Nhiều người cho rằng đồng tính và dị tính là hai nhóm riêng biệt: chúng ta chỉ có thể thuộc về một trong hai nhóm mà thôi. Thực tế, có nhiều người dị tính đã trải nghiệm mối quan hệ đồng tính và cũng có ngược lại. Như vậy, đồng tính và dị tính là hai cực điểm trên thang giới tính.
Đây là thước đo Kinsey gồm 7 điểm nhằm miêu tả định hướng giới tính của Alfred Kinsey phát triển
Theo một nghiên cứu vào năm 1991 cho biết có khoảng 5-8% dân số Mỹ là người đồng tính. Vì thế trong cuộc đời, chúng ta hoàn toàn có thể thay đổi định hướng giới tính một cách linh hoạt theo thang đánh giá của Kinsey. Các nghiên cứu về định hướng giới tính thực sự đòi hỏi cách tiếp cận phức tạp và linh hoạt ngày càng nhiều hơn.
Lý giải hiện tượng lệch lạc giới tính theo sinh lý & môi trường
Yếu tố sinh lý
Nhiều giả thuyết cho rằng, yếu tố sinh học như hoocmon tiết ra vào thời kì tiền sinh sản hoặc trong giai đoạn trưởng thành có vai trò định hướng giới tính. Ví dụ, tiếp xúc với lượng cao androgens (hoocmon nam) vào giai đoạn trước sinh có thể dẫn đến sự nam tính hoá sau này trong định hướng giới tính.
Yếu tố gen cũng nhận được nhiều sự quan tâm. Một số nghiên cứu trên đồng tính nam hoặc song tính (bisexual) cho thấy có đến 52% anh em sinh đôi cùng trứng hoặc 22% anh em sinh đôi khác trứng, hoặc 11% anh em nuôi, cũng là người đồng tính hoặc song tính. Và các nghiên cứu trên đồng tính nữ cũng cho ra kết quả tương tự.
Theo Bogaert và Blanchard ” Bé nam càng có nhiều anh trai thì có xu hướng đồng tính càng cao khi lớn lên – Hiệu ứng anh trai (Fraternal birth-order effect) ” Blanchard lí giải cho hiệu ứng này bằng phản ứng miễn dịch trong môi trường bào thai của người mẹ, kháng nguyên H-Y sản xuất ra từ bào thai nam tăng dần sau mỗi lần người mẹ mang thai, và có ảnh hưởng tới quá trình hình thành não của bào thai nam tiếp sau đó. Nghiên cứu cho thấy đồng tính nam thường có nhiều anh trai hơn dị tính nam, thêm một người anh trai sẽ làm tăng khả năng đồng tính khoảng 33%. Điều này không thấy được ở đồng tính nữ càng khẳng định vai trò của kháng nguyên H-Y chỉ có ở nam giới. Như vậy có thể kết luận gen cũng có mối liên hệ với định hướng đồng tính.
Yếu tố môi trường
Các nhà giáo dục cho rằng, đồng tính xuất phát từ những kinh nghiệm tiêu cực với người dị tính (straight) và tích cực với người đồng tính (gay) từ nhỏ.
Cũng theo quan điểm này, các nhà xã hội học cho rằng đồng tính phát triển từ những mối quan hệ không tốt với bạn bè cùng giới.
Thí dụ trường hợp khi đứa trẻ bị chọc ghẹo là đồng tính, điều này dẫn đến việc đứa trẻ phát triển những hành vi đi theo tên gọi đó (self-fulfilling prophecy). Tuy nhiên những lí giải này đều không có chứng cứ mạnh mẽ.
Chưa một ai chứng minh được định hướng giới tính của cha mẹ liên quan đến định hướng giới tính của con trẻ. Những ông bố bà mẹ dị tính (straight) vẫn có khả năng sinh ra những đứa trẻ đồng tính hoặc dị tính như những cha mẹ đồng tính. Như vậy, đa số trẻ lớn lên từ gia đình đồng tính nam hoặc đồng tính nữ vẫn có định hướng dị tính (straight).
Các nhà nghiên cứu phát hiện rằng, hành vi nữ tính ở trẻ em nam và hành vi nam tính ở trẻ em nữ có tương quan với định hướng đồng tính về sau này. Nhiều người đồng tính nói rằng, bản thân họ có thể nhớ lại trải nghiệm đồng tính từ ấu thơ. Mối liên hệ này mạnh hơn ở đồng tính nam so với đồng tính nữ, hợp lý với nhận định định hướng giới tính nữ dễ biến chuyển hơn giới tính nam.
Yếu tố sinh học như gen và hoocmon có thể không trực tiếp tác động làm cho một người trở thành đồng tính hay dị tính nhưng chúng ảnh hưởng đến tính cách của trẻ và khi lớn lên, những trẻ này thể hiện hành vi hoặc sở thích, phù hợp với tính cách của mình và mang tính trái ngược với định hướng giới tính truyền thống.
Định hướng giới tính có thể thay đổi không?
Các chuyên gia đều cho rằng, định hướng giới tính không phải là một sự lựa chọn và không thể thay đổi được. Một vài người trong chúng ta là đồng tính hay lưỡng tính, có thể che giấu định hướng giới tính của bản thân, sống như cách một người dị tính để tránh sự kỳ thị và định kiến từ mọi người xung quanh. Chúng ta cũng có thể lãng tránh khi định hướng giới tính không phù hợp với đạo đức bản thân.
Có rất nhiều trung tâm tư vấn tham vấn tâm lý sức khỏe hỗ trợ bạn trong vấn đề đấu tranh về định hướng giới tính của mình. Các chuyên gia cộng đồng có thể giúp bạn lên kế hoạch đương đầu với những định kiến, kỳ thị từ mọi người xung quanh. Khi bạn được hiểu biết đúng điều này, bạn cũng sẽ không gây tổn thương cho người khác chỉ bởi vì những định kiến số đông nữa.
Làm sao để định hướng giới tính cho bản thân?
Tìm đến sự hỗ trợ của chuyên gia tâm lý
Với một số bạn trẻ hiện nay, định hướng giới tính biểu hiện rõ ràng ngay khi còn thời niên thiếu hay thanh niên dù họ chưa từng có kinh nghiệm về tình dục.
Ví dụ như người đồng tính sẽ có những suy nghĩ về tình dục hay hành vi bản thân đều hướng đến những người cùng giới tính. Mong bạn không nên vì những lời trêu chọc hay đánh giá từ xung quanh mà cảm thấy hoài nghi về giới tính của chính mình. Từ kiến thức căn bản và trải nghiệm của chính bản thân mình, bạn hoàn toàn có thể định hướng giới tính cho bản thân, hoặc tìm đến sự hỗ trợ của chuyên gia tâm lý.
Để buổi trò chuyện định hướng giới tính trở nên dễ chịu
Mie Master luôn hướng đến cung cấp những thông tin hữu ích, chính xác, đáng tin cậy giúp trẻ lớn lên có những quan niệm và lối sống đúng đắn khi trưởng thành.
Vào giai đoạn dậy thì, câu chuyện nên cởi mở hơn từ chuyện tình yêu cho đến sinh hoạt tình dục, tình dục an toàn, cách phòng vệ bản thân cũng như phòng tránh các bệnh liên quan đến tình dục.
Luôn chú tâm tìm hiểu bạn trẻ thật sự muốn hỏi về điều gì. Có thể còn ngại ngùng nên khi nói về một vấn đề, bạn trẻ thường không đưa ra câu hỏi trực tiếp. Cởi mở hơn với các câu hỏi “Bạn hiểu thế nào về điều đó?”, “Bạn nghĩ như thế nào?”, “Theo bạn điều đó có nghĩa là gì?”
Chúng ta không đưa ra quá nhiều thông tin. Chúng ta có thể đưa ra những câu trả lời đơn giản, ngắn gọn, và giải thích một số thuật ngữ bạn trẻ chưa nghe bao giờ. Sau khi trả lời, chúng ta luôn khuyến khích bạn trẻ đưa ra những câu hỏi tiếp theo để cùng thảo luận.
Việc xác nhận bạn trẻ hiểu đúng là vô cùng quan trọng. Sau khi giải thích hãy hỏi lại thông tin với những câu hỏi tu từ mang tính khẳng định.